Theo quy định pháp luật hiện hành, cá nhân có thể uỷ quyền cho người khác thay mình thực hiện một hoặc một số công việc nhất định trong phạm vi uỷ quyền. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định một số trường hợp cá nhân phải tự mình thực hiện mà không thể uỷ quyền cho người khác.
1. Trong quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình.
1.1 Đăng ký kết hôn.
Theo Khoản 1 Điều 18 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định về thủ tục đăng ký kết hôn: “Hai bên nam, nữ nộp tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định cho cơ quan đăng ký hộ tịch và cùng có mặt khi đăng ký kết hôn”. Như vậy, khi thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải cùng có mặt, không được uỷ quyền cho người khác thực hiện thủ tục này thay mình.
1.2 Tham gia tố tụng khi ly hôn.
Căn cứ Khoản 4 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện”. Theo đó, Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ”.
Như vậy, về nguyên tắc, đương sự không được uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng khi ly hôn, trừ trường hợp tại Khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như nêu trên.
1.3 Công chứng di chúc của mình.
Khoản 1 Điều 56 Luật Công chứng năm 2014 quy định người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, không uỷ quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc.
1.4 Đăng ký nhận cha, mẹ, con.
Căn cứ Khoản 1 Điều 25 Luật Hộ tịch năm 2014 về thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con: “Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt”. Như vậy, thủ tục nhận cha, mẹ, con bắt buộc các bên phải có mặt, không thể uỷ quyền cho người khác thực hiện thủ tục.
1.5 Người được uỷ quyền cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với người uỷ quyền mà quyền và lợi ích hợp pháp của người được uỷ quyền đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người uỷ quyền (Điểm a Khoản 1 và Khoản 2 Điều 87 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
1.6 Đang là người uỷ quyền trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được uỷ quyền trong cùng một vụ việc (Điểm b Khoản 1 và Khoản 2 Điều 87 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
1.7 Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại diện trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật (Khoản 3 Điều 87 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
2. Trong quan hệ kinh tế.
2.1 Chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản không được ủy quyền cho bên tham gia hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết, hợp tác kinh doanh hoặc góp vốn thực hiện ký hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, cho thuê mua bất động sản (Khoản 5 Điều 13 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014).
2.2 Chủ tịch và thành viên Hội đồng quản trị của tổ chức tín dụng là hợp tác xã không được uỷ quyền cho những người không phải là thành viên Hội đồng quản trị thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình (Khoản 5 Điều 81 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010).
2.3 Gửi tiền tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng.
Căn cứ Khoản 1 Điều 12 Thông tư 48/2018/TT-NHNN quy định về thủ tục gửi tiền tiết kiệm tại địa điểm giao dịch của tổ chức tín dụng: “Người gửi tiền phải trực tiếp đến địa điểm giao dịch của tổ chức tín dụng và xuất trình Giấy tờ xác minh thông tin của người gửi tiền; trường hợp gửi tiền gửi tiết kiệm chung, tất cả người gửi tiền phải trực tiếp xuất trình Giấy tờ xác minh thông tin của mình. Trường hợp gửi tiền gửi tiết kiệm thông qua người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo pháp luật phải xuất trình giấy tờ chứng minh tư cách đại diện của người đại diện theo pháp luật, Giấy tờ xác minh thông tin của người đại diện theo pháp luật và Giấy tờ xác minh thông tin của người gửi tiền”. Như vậy, thủ tục gửi tiền tiết kiệm phải do chính người tiền trực tiếp đến địa điểm giao dịch của tổ chức tín dụng thực hiện. Thủ tục này có thể thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật (nếu có), nhưng không thể thực hiện qua người diện bằng hình thức uỷ quyền.
2.4 Cá nhân không được ủy quyền quyết toán thuế cho tổ chức trả thu nhập.
Căn cứ Mục 2 Phần III Công văn 5749/CT-TNCN năm 2018, cá nhân không được uỷ quyền quyết toán cho tổ chức trả thu nhập trong các trường hợp sau:
- Cá nhân đảm bảo điều kiện được ủy quyền nhưng đã được tổ chức trả thu nhập cấp chứng từ khấu trừ thuế TNCN thì không ủy quyền quyết toán thuế cho tổ chức trả thu nhập (trừ trường hợp tổ chức trả thu nhập đã thu hồi và hủy chứng từ khấu trừ thuế đã cấp cho cá nhân).
- Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên tại một đơn vị nhưng vào thời điểm ủy quyền quyết toán thuế không làm việc tại tổ chức đó.
- Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên tại một đơn vị, đồng thời có thu nhập vãng lai chưa khấu trừ thuế hoặc khấu trừ thuế chưa đủ (bao gồm trường hợp chưa đến mức khấu trừ và đã đến mức khấu trừ nhưng không khấu trừ).
- Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên tại nhiều nơi.
- Cá nhân chỉ có thu nhập vãng lai đã khấu trừ thuế theo tỷ lệ 10% (kể cả trường hợp có thu nhập vãng lai duy nhất tại một nơi).
- Cá nhân chưa đăng ký mã số thuế.
- Cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương, tiền công đồng thời thuộc diện xét giảm thuế do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo thì không ủy quyền quyết toán thuế mà cá nhân tự khai quyết toán thuế kèm theo hồ sơ xét giảm thuế theo hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 46 Thông tư số 156/2013/TT-BTC.
3. Trong quan hệ hành chính.
3.1 Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng hành chính không được uỷ quyền lại cho người thứ ba.
Khoản 5 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của người ủy quyền. Người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người thứ ba”.
3.2 Cấp phiếu lý lịch tư pháp số 2.
Khoản 2 Điều 46 Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 quy định trường hợp cá nhân yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 2 thì không được uỷ quyền cho người khác làm thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
3.3 Người bị chất vấn không được ủy quyền cho người khác trả lời thay mình tại kỳ họp Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Thường trực Hội đồng nhân dân (Điểm b Khoản 3 Điều 15, Điểm b Khoản 2 Điều 26, Điểm b Khoản 3 Điều 60, Điều b Khoản 2 Điều 69 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015).
4. Trong quan hệ hình sự.
4.1 Nhận tội thay mình.
Khoản 1 Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, người nào phạm tội không thể uỷ quyền người khác nhận tội thay mình mà chính người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự.
4.2 Các trường hợp không được uỷ quyền trong tố tụng hình sự.
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra không được ủy quyền cho Điều tra viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Khoản 4 Điều 36 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
- Cấp trưởng, cấp phó cơ quan của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Công an nhân dân, Quân đội nhân dân không được ủy quyền cho cán bộ điều tra thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 39, Điều 40 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
- Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát không được ủy quyền cho Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Khoản 4 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án không được ủy quyền cho Thẩm phán thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Khoản 4 Điều 44 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015).
Bộ phận Tư vấn Pháp luật